Tri thức và cuộc sống
Văn tế thập loại chúng sinh: Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán, thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời
“Văn tế thập loại chúng sinh” còn được gọi là “Văn chiêu hồn” là một sáng tác xuất sắc bằng chữ Nôm của đại thi hào Nguyễn Du. Bài văn tế viết theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm, có thể được chia thành bốn phần: Phần mở đầu gồm 20 câu, mô tả lễ cầu siêu tháng Bảy; Phần hai gồm 116 câu, kể về thập loại chúng sinh; Phần ba gồm 20 câu, mô tả cảnh tượng cô hồn vất vưởng khắp nơi; Phần kết, gồm 28 câu, tiết lộ con đường chúng sinh hướng tới Phật Pháp, tu hành giải thoát khỏi vòng luân hồi.
Cuộc đời Nguyễn Du góp phần lí giải “Văn tế thập loại chúng sinh”
Nguyễn Du xuất thân danh gia vọng tộc nhưng gặp phen thay đổi sơn hà nên cuộc đời vất vả gian truân. Khi mới 13 tuổi, Nguyễn Du đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản, hơn ông 31 tuổi. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương, đỗ sinh đồ khi 18 tuổi, được bổ nhiệm chức chánh thủ, chỉ huy đội quân hùng mạnh nhất Thái Nguyên cùng Nguyễn Đăng Tiến, một võ sư gốc Hoa, làm quyền trấn thủ Thái Nguyên, thay mặt Nguyễn Khản.
Năm 1787, Nguyễn Du chiến bại trước nghĩa quân Tây Sơn, bắt đầu mười năm phiêu bạt giang hồ. Ba năm đầu là cùng Nguyễn Đăng Tiến sang Vân Nam, Trung Quốc. Đến nơi, Nguyễn Du bị bệnh suốt ba tháng trời. Khi khỏi bệnh, ông muốn thoát tục thành nhà sư Chí Hiên, đi vân du Trung Quốc theo gương thi tiên Lý Bạch. Tay trắng vân du muôn dặm, ông đã vượt qua khoảng 5.000 km trong ba năm, từ Liễu Châu tới Hàng Châu. Tại Hàng Châu, ông ngụ tại chùa Hổ Bào, nơi nhân vật lịch sử Từ Hải, tức Minh Sơn hòa thượng từng tu hành.
Nguyễn Du về nước năm 1790. Quãng đời "mười năm gió bụi" của ông nay ở đầu sông, mai ở cuối bể, ăn nhờ ở đậu, túi rỗng không, đau ốm liên miên, nghèo không tiền mua thuốc, nhiều lần muốn về quê nhà ở Hà Tĩnh, nhưng ở đó nhà cũng không có, mà anh em thì mỗi người một ngả... Nguyễn Ánh diệt nhà Tây Sơn năm 1802, lên ngôi lấy hiệu Gia Long, mời Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn, khi ấy ông đã ba mươi tuổi, tóc bạc trắng, bệnh đầy thân. Gia phả chép: Dầu làm đến chức á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã đơn giản như một học trò nghèo.
Hơn nữa, hoàn cảnh đất nước cuối thế kỉ 18 là một thời dài non sông gió lốc, chiến loạn liên miên, quan quân chiến trận nhọc nhằn, mạng người cỏ rác, máu chảy thành sông, xương phơi đầy đồng, mùa màng dở dang, nghề nghiệp phế bỏ, dân gian phải ra phu ra lính, rồi thiên tai hạn hán mất mùa đói kém, triều đại liên tiếp đổi thay. Các họ hàng quyền quý đắp đổi nhau trút đổ tàn tạ lớp lớp tang thương. Nhất là cảnh bệnh dịch, phu phen, mất mùa, đói khổ, người chết như rạ là những ám ảnh tai ách thường xuyên ở thời Lê mạt…
Bản thân Nguyễn Du trong thời kỳ mười năm lưu lạc đã từng tu hành, lúc trú tạm ở chùa, khi vân du tứ xứ, nếm trải đủ nỗi thống khổ, chứng kiến đủ loại chúng sinh. Bài "Văn tế thập loại chúng sinh" đã được hình thành từ chính những nếm trải cuộc đời của tác giả. Có thể nói, vì ra đời giữa buổi “thay đổi sơn hà”, cất lên từ tấm lòng “vằng vặc nỗi thương đời” và thấm đẫm triết lý nhà Phật, thấu tỏ mọi khổ nạn kiếp nhân sinh nên tác phẩm mới có được sức sống và tầm vóc như vậy.
Phần mở đầu: Tháng Bảy, nhà chùa mở lễ cầu siêu
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Mở đầu bài tế là cảnh tượng não nề của tiết tháng Bảy. Mưa dầm sùi sụt như ai đang khóc, gió heo may mang theo hơi nước giá lạnh quật buốt xương khô, chiều thu nhuốm bạc bởi ngàn lau, nhuộm vàng bởi lá ngô. Con đường lác đác sương sa, man mác trong bóng chiều thêm màu trắng bạc tang tóc cho khung cảnh, khiến lòng người càng sầu muộn. “Lòng nào mà chẳng thiết tha, Cõi dương còn thế nữa là cõi âm”, nỗi buồn của những vong hồn phiêu bạt dường như cũng ẩn hiện trong khung cảnh đượm buồn của tháng Bảy, nhà thơ nghe thấu cả tâm tình của họ.
Tháng Bảy còn được gọi là tháng cô hồn. Vào ngày rằm tháng 7, thương xót vong hồn, nhà chùa hàng năm lập đàn giải thoát, hướng Phật cầu siêu, giải oan, cứu khổ cho những vong hồn bơ vơ; nhân gian thắp hương cúng bái, bố thí đồ ăn cho những cô hồn đói khát không nơi nương tựa hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người. Những dòng thơ của Nguyễn Du dường như đã hình dung phảng phất cảnh tượng côi cút của vong hồn nơi âm gian. Câu hỏi “Còn chi ai quý ai hèn, Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?” biểu đạt cảm ngộ về sự vô thường của nhân sinh, sự bình đẳng của chúng sinh cô hồn, cũng là lời cảnh tỉnh cho con người nơi dương thế đang mải miết trong vòng tranh danh đoạt lợi.
Phần II: Kể về thập loại chúng sinh
Nguyễn Du đã tả cảnh bi thương từ dương gian đến âm phủ, từ tiết đầu thu ảm đạm, thê lương của cõi dương chuyển sang cảnh “trường dạ tối tăm” bi thiết của cõi âm... để nêu ra các loại chúng sinh với những nghiệp cảnh khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhau. Chữ “mười” ở đây không phải là số đếm thông thường mà tượng trưng cho sự rộng khắp, toàn vẹn như trong cách nói “mười phân vẹn mười”, “nhân vô thập toàn”... Các loại chúng sinh được nhắc đến trong văn tế là:
1. Những kẻ tính đường kiêu hãnh
Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình quý tộc tột bậc phú quý vinh hoa, hơn nửa cuộc đời mình sống trong tàn cuộc của một triều đại và cũng là tàn cuộc của mọi cuộc tranh chấp quyền lực, cận cảnh chứng kiến đồng thời cũng can dự ít nhiều vào thế cục, có lẽ đồng cảm sâu sắc, nếu không muốn nói là đồng bệnh tương lân với những vong hồn xuất thân cao quý. Đó là những quân vương quý tộc thất thế sa cơ, ôm mối cừu hận khó tan.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Thế khuất, vận cùng; lớn sang giàu, nặng oán thù, từng đoàn quỷ lạc loài không đầu không tên, thây phơi ngoài chiến địa, khóc than phận hẩm trong đêm mưa tháng Bảy. Nguyễn Du cũng không có lời giải cho nỗi oán hờn của họ, chỉ có thể cùng họ thở một tiếng than dài: “Cho hay thành bại là cơ, mà cô hồn biết bao giờ cho tan!” Nguyên nhân thành bại hết thảy đều là Thiên cơ, thuận ý Trời thì thành tựu, nghịch với Thiên ý thì nỗ lực tranh hùng cuối cùng chỉ chuốc lấy thất bại, tổn mạng vô ích mà thôi.
2. Những giai nhân sống trong màn lan trướng huệ
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trong thời loạn, phụ nữ là những thân phận đáng thương nhất, bởi họ mong manh như chiếc lá. Họ hoàn toàn xa lạ với toàn bộ tham vọng của những người đàn ông, loạn tới, họ cũng chỉ có thể ngơ ngác phó mặc cho số phận. Tên tuổi của những người đàn ông có thể được lưu lại, được nhớ tới, nhưng trong bước đường lưu lạc, ai sẽ nhớ tới nấm mộ của một người phụ nữ, ai sẽ quan tâm trước đây họ đã từng tôn quý dường nào.
3. Những kẻ quan to mũ cao áo rộng
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản, Cát lại ngày Y, Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình,
Lầu ca viện hát tan tành còn đâu?
Kế đến là những vong hồn từng nắm giữ quyền uy khuynh đảo thiên hạ. Chốn quan trường mũ cao áo rộng, nắm trong tay mọi việc quốc gia đại sự, ngọn bút của họ có thể định đoạt sinh mạng của muôn người. Họ lúc sinh thời ban ngày mũ miện chỉn chu, uy phong đạo mạo, đêm về thì an thân trong nhung lụa, chẳng đếm xỉa nỗi khổ của muôn dân. Đó là những kẻ cầm quyền coi trăm họ như cỏ rác, tất sẽ: “thịnh mãn lắm oán thù càng lắm”, cho đến khi “lầu ca, viện hát tan tành”, thì “ngàn vàng khôn đổi được mình”, họ trở thành những “cô hồn thất thểu dọc ngang, nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh”.
4. Những chiến tướng bài binh bố trận
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Là những người gây nên cơn biến loạn, cũng có thể là những tướng soái hiếu chiến tham công dự phần thổi ngọn lửa chiến tranh lan rộng. Họ đã đem xương máu của binh sĩ và dân chúng để đánh cược cho công thành danh toại của chính mình, nhưng toàn bộ cuộc đỏ đen ấy đều chỉ là sự thất bại. May mắn thì được vào lăng miếu, chẳng may thua cuộc thì chỉ còn:
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
5. Những kẻ tính đường trí phú, bôn ba để mong được giàu sang
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Tiếp theo là những vong hồn mà sinh thời, cả đời chí thú làm giàu, mải mê tích cóp, đến mức quên cả bản thân mình. Họ vì tiền không chỉ làm khổ mình, mà còn trở nên ích kỷ không còn tình nghĩa, bỏ rơi thân bằng cố hữu, đến nỗi “ruột rà không kẻ chí thân”. Nhà thơ đặt câu hỏi: “Dẫu làm nên để dành phần cho ai?”, và khổ thơ tiếp theo chính là đáp án cho câu hỏi trên: “Khi nằm xuống không người nhắn nhủ, Của phù du dẫu có như không, Sống thời tiền chảy bạc ròng, Thác không đem được một đồng nào đi”. Trái ngược với cuộc đời giàu sang, giờ đây họ chỉ còn là những cô hồn đói khát bên nấm mồ cô quạnh bị bỏ rơi: “Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm, Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?”
6. Những sĩ tử rắp cầu chữ quý
Nguyễn Du cũng là một nho sinh, dẫu là công tử con nhà thế tộc nhưng ông cũng như các anh trai mình vẫn đeo đuổi nghiệp khoa cử. Ông có đời sống gần gũi với những hàn nho xa xứ lên kinh thành mong mỏi đề tên trên bảng vàng để lập công danh, và với họ, ông cũng trải nỗi lòng thương cảm :
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà thí thân?
Nếu những chiến tướng mong cướp ấn nguyên nhung liên lụy tới chúng dân, thì những sĩ tử rắp cầu chữ quý, muốn đổi đời đổi phận theo đuổi khoa cử cũng liên lụy tới người thân. Họ đánh đổi êm ấm chốn quê nhà để đánh cược vào cơ hội thăng quan tiến chức, được dự vào hàng tôn quý nhưng tất cả chỉ là một giấc mộng hoàng lương, dẫu có đắc thời rồi cũng đến lúc suy tàn. Và nếu số phận khắc nghiệt thì rồi người ấy cũng chỉ còn là hồn ma bóng quế vất vưởng tha hương :
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
7. Những kẻ vào sông ra bể
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
8. Những kẻ đi về buôn bán
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Những kẻ vào sông ra bể, kẻ đi về buôn bán là vong hồn của những người lao động bất hạnh, kẻ chẳng may bỏ mạng giữa cơn giông tố, người bất chợt gặp thiên tai hay bạo bệnh mà chết giữa nẻo đường. Một chiếc đòn gánh tre mà gợi ra bao nẻo đường vạn dặm, bao chặng đời tảo tần, gồng gánh của kẻ xuôi ngược tìm manh áo miếng cơm.
9. Những kẻ mắc vào khóa lính
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
10. Những kẻ nhỡ nhàng rơi vào buôn nguyệt bán hoa
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Nguyễn Du nhìn thấy cảnh đời của những vong hồn từng phiêu bạt tới chốn lầu xanh. Họ là những mảnh đời éo le, nhỡ nhàng một kiếp. Vì kế sinh nhai, họ đành nhắm mắt bán rẻ tuổi xuân, chết đi chẳng có ai hương khói. “Sống đã chịu một đời phiền não, Thác lại nhờ hớp cháo lá đa”. Nhà thơ không khỏi cảm thán những kiếp đời lầm lạc: “Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
11. Những người hành khất nằm cầu gối đất
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
12. Những kẻ mắc vòng tù ngục oan khiên
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc,
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
13. Những trẻ nhỏ lìa mẹ cha từ lúc sơ sinh
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
14. Những kẻ chết vì các loại nạn tai: thuỷ, hoả, ác thú…
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Trong bãi tha ma loạn thế ấy, kẻ tính đường kiêu hãnh hay kẻ nằm cầu gối đất nào có gì khác nhau, kẻ bài binh bố trận hay kẻ mắc vào khóa lính nào có khác gì nhau, đại thần mũ cao áo rộng hay nho sinh bạc mệnh nào khác gì nhau, kẻ màn lan trướng huệ hay kẻ buôn nguyệt bán hoa nào có khác gì nhau… Những ảo mộng cao vời của một kiếp người tất thảy cũng hư vô như những mong ước tầm thường, tầm thường như một kẻ tính đường trí phú mải mê buôn bán hay tầm thường như một kẻ dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi. Người quý kẻ hèn, người hiền kẻ ngu khi đứng trước cái chết đều vô nghĩa cả, tất thảy rồi vẫn chỉ là cảnh bơ vơ góc bể chân trời, nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao.
“Văn tế thập loại chúng sinh” phác nên một bức tranh toàn cảnh của hồn ma bóng quế phiêu dạt nhưng cũng là họa nên một diễn cảnh về đời sống khổ đau của con người. Khổ đau, suy cho cùng cũng đến từ níu bám những điều hư ảo. Với bậc tôn quý thì hư ảo là công danh, là ước vọng; với những người thân phận thấp hơn thì là truy cầu ảo mộng về tiền tài, địa vị; với những kẻ dưới đáy xã hội thì truy cầu về miếng cơm manh áo… Xét ra thì mọi sự đeo đuổi, truy cầu ấy, có lớn, có nhỏ, nhưng hư ảo vẫn chỉ là hư ảo, và vẫn cứ là vướng mắc, mà càng vướng mắc thì càng kéo lê đau khổ tới mức dật dờ vô hướng.
Phần III: Cảnh tượng khốn khổ thê lương của những cô hồn vất vưởng không nơi nào để đi
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Đời là bể khổ, những kiếp người sao quá đa đoan, người trên kẻ dưới nối nhau chung một kết cục bi thảm. Từ những kẻ quyền thế cao sang đến người xó chợ đầu đường không ai có thể khước từ cái chết. Tuy mỗi người một nghiệp khác nhau nhưng cầu Nại Hà thì không ai có thể không bước qua, chỉ là kẻ trước người sau mà thôi!
Nguyễn Du đã nhìn thấu và thương xót sự khốn khổ của những vong linh hồn xiêu phách tán. Họ lang thang vất vưởng khắp nơi: “Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi; Hoặc là nương ngọn suối chân mây; Hoặc là bụi cỏ bóng cây; Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ. Hoặc là nương Thần từ, Phật tự; Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông; Hoặc là trong quãng đồng không; Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre”, trong cảnh đói rét thê lương, lôi thôi lếch thếch, tạm bợ qua ngày: “Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết, Gan héo khô dạ rét căm căm; Dãi dầu trong mấy mươi năm, Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương”. Nhà thơ đã nêu ra những khổ nạn chất chồng của những kiếp nhân sinh, mà hết thảy đều là do nhân quả, đều bởi con người theo đuổi dục vọng phù phiếm mà không ngừng tạo nghiệp rồi phải hoàn trả nghiệp.
“Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn, Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra, Lôi thôi bồng trẻ dắt già, Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh”. Ánh sáng Mặt Trời là biểu trưng của “dương”, là “hỏa” trong ngũ hành, là nguồn năng lượng không thể thiếu cho sự sống của hết thảy sinh mệnh ở dương gian. Thế nhưng, những vong hồn nơi cõi âm lại phải lẩn tránh ánh dương, bồng bế nhau chui lủi trong đêm đen mù mịt… Nhà thơ khuyên nhủ họ: “Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe Kinh”. Phải chăng vì Kinh Phật có thể mở ra con đường cứu khổ cứu nạn chúng sinh?
Phần IV: Phật Pháp mở ra con đường cho chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển Pháp Luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Siêu độ thực sự đối với các vong hồn không phải là “hớp cháo lá đa” qua bữa hay cúng lễ thịnh soạn của người thân, cũng không phải sự tôn vinh trong sử sách, Nguyễn Du chỉ ra rằng Phật Pháp có thể “khua tỉnh chiêm bao” như những trận mưa rào xối xả có thể giúp não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Bao trùm cảnh tượng hồn ma bồng bế dắt nhau dưới bầu trời u huyền giông gió dật dờ là bước chuyển của thiên tượng. Từ những trận mưa dầm sùi sụt lẫn với gió may đìu hiu se lạnh, chuyển dần lên bầu trời tối tăm mù mịt, khi bóng tối buông xuống bao phủ cõi sống, chỉ còn lập lòe đốm lửa ma trơi với những âm thanh văng vẳng cất lên từ cõi chết. Và rồi sau rốt, những cơn mưa phúc lành tuôn xuống cùng ánh hào quang của Phật xua đi cơn ác mộng triền miên không chỉ của người chết mà của cả người đang sống.
Đọc bốn câu thơ: “Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ, Phóng hào quang cứu khổ độ u, Rắp hoà tứ hải quần chu, Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không”, ta thấy có một điều gì đó phi thường, vượt khỏi phạm vi của quy luật nhân quả. Khổ thơ tiếp theo mô tả cảnh tượng huy hoàng khi đức Phật từ bi ra tay cứu độ chúng sinh: “Nhờ đức Phật thần thông quảng đại, Chuyển Pháp Luân tam giới thập phương, Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương, Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh” Đức Phật thần thông quảng đại, xoay chuyển Pháp Luân trong thập phương tam giới, theo sau là Tiêu Diện đại vương cầm cờ dẫn đường chúng sinh.
Cuối cùng nhà thơ nhắc nhở chúng sinh hãy biết trân quý cơ duyên, lấy Phật làm lòng vì kiếp phù sinh như hình bào ảnh, có chữ rằng: ‘Vạn cảnh giai không’. Nếu quả thật sinh mệnh vĩnh hằng, thì một kiếp nhân sinh trong hồng trần chẳng qua chỉ là một cái nháy mắt, đừng chấp vào huyễn cảnh mà chìm đắm trong hồng trần cuồn cuộn. “Ai ơi lấy Phật làm lòng, tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi”. Thế nào là lấy Phật làm lòng? Đó chính là nghe theo lời Phật dạy mà tu luyện bản thân, dần dần buông nhẹ dục vọng, loại bỏ thói hư tật xấu khiến thân tâm thanh tịnh, vậy thì sẽ có ngày siêu thoát khỏi luân hồi.
Ba khổ cuối trở lại cảnh tượng của buổi lễ cầu siêu đơn sơ mà linh thiêng. Theo lời Phật dạy, đàn chẩn tế chỉ có bát cháo nén nhang, manh áo giấy, thoi vàng mã. Lễ cầu siêu tập hợp nhiều người cùng nhau cầu nguyện, tụng kinh trì chú, cúng thí cho vong hồn, nhờ vậy mà vong hồn cảm nhận được sự từ bi của chúng nhân đối với mình, từ đó những đau khổ cô đơn của họ dần được xoa dịu. Nếu vong hồn có thể buông bỏ những oán hận, biết ăn năn và đặt niềm tin vào Phật Pháp, họ cũng sẽ sớm được siêu thoát.
*****
“Văn tế thập loại chúng sinh” không viết theo thể văn biền ngẫu mà viết theo hình thức thơ song thất lục bát, âm điệu trầm bổng, thiết tha, thấm đẫm chất trữ tình. Bài tế cũng không thiên về giọng điếu ai oán bi thương mà cân bằng giữa xót thương và thức tỉnh, bằng hình thức đối, bằng sự luân phiên các cặp câu song thất và lục bát, bằng những từ láy giàu sức gợi đi cùng những từ Hán Việt trang nhã.
Không chỉ là lời thương xót, chỉ dẫn các cô hồn, bài văn tế cũng là một lời “khua tỉnh chiêm bao” cảnh báo cho con người thế gian, nếu không kịp thời bừng tỉnh, thoát khỏi vòng mê đắm của danh lợi phù hoa thì sẽ mãi chìm đắm trong thập loại chúng sinh. Nhà thơ cũng cảnh tỉnh con người hãy suy ngẫm về đoạn kết của sinh mệnh, ý nghĩa của sự tồn tại trên cõi thế.
“Văn tế thập loại chúng sinh” cũng có thể là lời tiên tri về một đức Phật toàn năng, là hy vọng được cứu rỗi của mọi chúng sinh, có quyền năng khiến cho não phiền rũ sạch oán thù rửa không, mang theo bảo bối “Chuyển Pháp Luân” phổ độ hết thảy những chúng sinh nhận thức được cơ duyên vạn cổ này.
"Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán, Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời" trích từ bài thơ "Tiếng Việt" của nhà thơ Lưu Quang Vũ.