1. Nhân văn là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại
1.1. Khái niệm “nhân văn” và tính nhân văn trong văn học
Nhắc đến khái niệm “nhân văn” chúng ta không thể không quan tâm đến những thuật ngữ gần nghĩa có liên quan mật thiết là “nhân bản” và “nhân đạo”, sự phân biệt những khái niệm đó giúp ta hiểu rõ hơn bản chất vấn đề.
Cái cốt yếu của văn học, là chỉ ra và hướng con người đến tận chân, tận thiện, tận mỹ, tức là tận cùng của cái thật, của cái thiện và của cái đẹp. “Chân- thiện- mỹ” dường như đã trở thành một khái niệm được sử dụng rất rộng rãi trong quá trình phân tích văn bản, khi viết lí luận trong các bài thi, và trong các đầu sách tham khảo. Vậy, chân- thiện- mĩ có mối liên hệ gì với 3 khái niệm “nhân đạo”, “nhân bản” và “nhân văn”? Ba khái niệm thoạt đọc tưởng như rất giống nhau, nhưng nếu như hiểu kĩ, hiểu sâu, thì mới có thể sử dụng từ ngữ đúng hơn, chính xác hơn.
- Nhân bản: Nhân bản là chỉ bản chất của con người. Là phần chân thực nhất của con người. Khái niệm này cho rằng, con người là con người, là một sinh thể có cả phần CON và phần NGƯỜI. Con người không chỉ có những khát vọng cao đẹp, không chỉ hướng thiện, hướng thượng mà cũng có những ham muốn, những dục vọng tầm thường, những nhỏ nhen ích kỉ. Chính vì lẽ ấy mà cần chấp nhận những khiếm khuyết, những sự chưa hoàn thiện, có như thế, con người mới có thể cảm thông cho nhau, bao dung cho nhau nhiều hơn.
- Nhân đạo: Đạo là con đường. Nhân đạo là thái độ đạo đức đối với con người, coi con người là đối tượng của tình yêu thương. Nếu nhân bản thiên về mặt bản năng, thì nhân đạo lại hướng con người đến những giá trị thiện lành, nó đòi hỏi con người phải luôn nỗ lực, luôn cố gắng để vươn tới sự hoàn thiện trên mọi phương diện. Nếu nhân bản quan tâm đến chữ “chân” thì nhân đạo hướng đến chữ “thiện.”
- Nhân văn: Không chỉ sống thật, sống thiện, chủ nghĩa nhân văn hướng con người đến sống đẹp. Văn là đẹp. Chủ nghĩa nhân văn xem trọng cái đẹp của con người. Văn học xưa nay bao giờ cũng hướng con người đến tính nhân văn. Bởi nó muốn thúc đẩy khát vọng sống đẹp, nghĩ đẹp, hướng đến những giá trị tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Một cách đầy đủ, nhân văn hướng con người đến cái tận mỹ.
=> Nhân văn đã trở thành tư tưởng xuyên suốt của nền văn học, trở thành thước đo giá trị của văn học. Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách… Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người.
1.2. Nhân văn là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại.
Văn học lấy con người làm trung tâm của đối tượng phản ánh, văn học luôn có ý thức khám phá, phát hiện những vẻ đẹp muôn mặt của con người trong cuộc sống nên “văn học là nhân học”. Vì lẽ đó, việc phản ánh cuộc sống con người, hướng tới con người đã trở thành thước đo giá trị văn học của mọi thời đại. Từ văn học dân gian đến văn học viết, từ văn học trung đại đến văn học hiện đại đều lấy tinh thần nhân văn làm cảm hứng sáng tác. Việc hướng tới con người, khẳng định ca ngợi những nét đẹp của con người đã làm nên giá trị của biết bao nhưng tác phẩm văn học, giúp cho tên tuổi của các nhà văn, nhà thơ sống mãi với thời gian
Tinh thần nhân văn trong thơ thời Lí thể hiện ở việc thơ ca đã phát hiện ra vẻ đẹp minh triết của trí tuệ con người: vẻ đẹp của sự điềm tĩnh và thông tuệ của nhà vua trị nước vô vi, thuận theo tự nhiên (Quốc Tộ - Pháp Thuận), vẻ đẹp an nhiên tự tại của người tu hành khi hiểu rõ quy luật tự nhiên và sống hòa nhịp cùng quy luật (Cáo tật thị chúng - Mãn giác thiền sư); vẻ đẹp của tinh thần tự do…
Tinh thần nhân văn trong thơ thời Trần lại gắn với vẻ đẹp mẫn cảm của tâm linh. Thơ ca thể hiện vẻ đẹp tâm hồn phong phú, dạt dào rung cảm trước thiên nhiên, cuộc sống, hướng đến con người, từ đó sáng lên những nhân cách cao thượng, khoáng đạt, hào hùng như thơ Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông…
Cảm hứng nhân văn trong thơ thời Lê Sơ gắn với vẻ đẹp tận tụy của ý thức trách nhiệm và sự thanh cao của khí tiết kẻ sĩ (sáng tác của Nguyễn Trãi). Vẻ đẹp nhân văn của dòng văn học đầu thế kỉ 18 thể hiện ở việc các tác phẩm đã trân trọng ngợi ca những khát vọng trong tình yêu và hạnh phúc của con người. Văn học đề cao vẻ đẹp của con người đặc biệt là giá trị về tâm hồn, phẩm cách (Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái…)
Tinh thần nhân văn của Thơ Mới, văn xuôi 1930 - 1945 là ở sự khẳng định cái tôi cá nhân. Cái nhìn nhân văn của những tác phẩm sau 1975 hướng tới góc ần khuất trong đời sống con người, phát hiện những vẻ đẹp của con người ở nhiều góc độ khác nhau.
Như vậy, “nhân văn” không chỉ là thước đo giá trị của văn học, không chỉ khằng định tấm lòng, sự tâm huyết, trăn trở của nhà văn với cuộc đời, với số phận con người mà nó đã trở thành một nhịp cầu nối kết giữa người xưa và người sau, giữa các bộ phận và các giai đoạn trong nền văn học dân tộc. Thế hệ hôm nay sẽ tìm thấy những gần gũi lạ kì trong suy tư, tình cảm, cảm xúc của người xưa, những đồng cảm sâu sắc vượt thời gian về những vấn đề muôn thủa của con người, thêm tự hào về những giá trị quý báu của văn học dân tộc.
Tìm hiểu về truyện cổ dân gian Việt Nam để thấy giá trị nhân văn là một giá trị đặc sắc, mang tính chất khởi nguồn, góp phần tạo nên một dòng chảy xuyên suốt các giai đoạn của nền văn học viết. Tình thần nhân văn là cảm hứng dạt dào của các nghệ sĩ dân gian với nhiều biểu hiện vô cùng phong phú.
2. Tinh thần nhân văn là tư tưởng xuyên suốt của loại hình truyện cổ dân gian Việt Nam với những biểu hiện phong phú
2.1. Tôn kính Thần linh, tôn trọng thiên nhiên, hòa hợp tự nhiên
Trong buổi bình minh của lịch sử loài người, cuộc đối thoại giữa con người với vũ trụ chứa đầy sự tôn kính. Và tôn kính Thần linh, tôn trọng thiên nhiên, hòa hợp tự nhiên là điều dễ hiểu. Các tác phẩm Thần trụ trời, Sơn Tinh Thủy Tinh, An Dương Vương, Mai An Tiêm, Sử thi Đăm San, Đẻ đất đẻ nước… đã thể hiện thái độ đó của con người.
Đến với sử thi Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường, từ cái tên của bộ sử thi này đã chứa đựng một quan niệm đầy vẻ nguyên sơ về Đấng Sáng thế. Ở cái thủa cổ xưa xa xăm mù mịt, người Mường cổ cũng như nhân loại buổi đầu cho rằng mọi sự vật hiện tượng cũng như con người đều do một vị Thần “chửa đẻ” mà thành. Con người sinh con đẻ cái, còn những “ông Thần, bà Thần” thì đẻ ra cả vũ trụ mênh mông, cả quả đất khổng lồ và cả vạn vật. Đoạn trích “Đẻ nước” đã miêu tả sự ra đời của một cơn mưa đặc biệt, con mưa thần thoại, qua đó mà ta hình dung được thái độ tôn kính của người xưa khi nhận thức tự nhiên: Hạn hán lâu ngày, dẫn đến người làm ruộng khao khát dòng nước. Niềm mong mỏi của con người đã chuyển hóa thành lời ao ước của thần linh (Ông Pồng Pêu ao ước, ước ơ là ước, ước sao được một trận mưa). Có sự cảm ứng tâm linh giữa người và Thần nên cầu được ước thấy, cơn mưa trút xuống một thời gian dài, vô tận, nước chảy tràn trề khắp mọi nẻo của mặt đất… Như vậy là người thời xưa đã nhận thức việc tạo ra nước là do vị thần Mưa. Và chính cơn đau đẻ của trời đất, vũ trụ ấy đã tạo ra một trận đại hồng thủy làm ngập lụt mặt đất, sau đó nước đã cuốn trôi mọi thứ, mặt đất trơ lại bùn lầy với hai anh em ruột chui từ quả bầu, qua nhiều thử thách của thần linh, hai anh em lấy nhau làm vợ chồng tạo nên nòi giống, loài người…
Sử thi Đăm Săn lại mang đến những nhận thức về vũ trụ và thiên nhiên rất độc đáo và hấp dẫn. Nữ thần Ánh sáng, nữ thần Mặt Trời trong nhận thức của người Ê đê cổ đại thật mạnh mẽ và táo bạo. Nữ thần Mặt Trời là một cô gái rực rỡ huy hoàng. Cô gái ấy là một vị thần đi đứng yểu điệu, dịu dàng như diều bay, phượng hoàng liệng, như nước chảy êm đềm,… Cách miêu tả và kể chuyện cho thấy thần linh rất gần gũi với con người. Ngôi nhà của nữ thần có thang lên làm bằng cầu vồng, mọi thứ đều bằng vàng, tỏa sáng lóng lánh… Hành động Đăm Săn ra đi cầu hôn nữ thần Mặt Trời và bị từ chối đã cho thấy sự cách biệt giữa Thần linh và con người. Hành động bất kính Thần linh và sự cao ngạo của Đăm Săn dẫn đến cái chết tất yếu của chàng.
Trong truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên, Lạc Long Quân thuộc dòng dõi Rồng lấy nàng tiên Âu Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân cảm thấy mình không thể sống mãi trên cạn được, đành từ biệt Âu Cơ dẫn năm mươi con xuống biển và sau đó Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi. Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Mười mấy đời truyền nối vua đều lấy hiệu là Hùng Vương. Bởi sự tích này mà người Việt Nam khi nhắc đến nguồn gốc của mình thường xưng là con Rồng cháu Tiên.
Trong truyện An Dương Vương, thần Kim Quy từ dưới biển lên đã ba lần giúp An Dương Vương: Một lần giúp nhà vua xây xong thành Cổ Loa, một lần cho An Dương Vương cái móng của mình để làm lẫy nỏ giữ thành và lần thứ ba, thần rẽ nước đón An Dương Vương khi nhà vua bị giặc tấn công đến bước đường cùng. Những chi tiết xương sống của cốt truyện này khẳng định vai trò quan trọng của Thần linh trong tâm thức con người. Ý thức về biển là nơi cho con người sức mạnh, cũng là nơi trở về tiếp sau cõi sống trần gian đã ăn sâu vào tiềm thức con người. Cái tên Mỵ Châu và những viên ngọc trai đẹp nhất, sáng nhất mang theo máu của Mỵ Châu và nước giếng Trọng Thủy trong Loa thành lại một lần nữa khẳng định sự gần gũi, hiểu biết của người Việt thời dựng nước về tự nhiên.
2.2. Khát vọng độc lập tự cường
Khát vọng độc lập tự cường là khát vọng của con người Việt Nam ở mọi thời đại. Bắt nguồn từ lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm nên đó là khát vọng được cháy lên từ hiện thực cuộc sống. Khát vọng một đất nước độc lập tự cường, đất đai sạch bóng quân thù, bờ cõi được mở mang, quốc gia phát triển thịnh vượng sẽ là tiền đề mang tới cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho con người. Đó là khát vọng lớn lao thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.
Đến với truyền thuyết Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm và truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy… khát vọng đó của con người được thể hiện mãnh liệt hơn bao giờ hết. Là một vị Vua đứng đầu nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương ấp ủ trong mình khát vọng độc lập tự cường. Để biến ước mơ ấy trở thành hiện thực, nhà Vua cho dời đô từ vùng rừng núi Nghĩa Lĩnh về đồng bằng Cổ Loa. Truyền thuyết chỉ kể lại một câu đơn giản như vậy nhưng đó là cả một sự nghiệp “dời non lấp bể” của một dân tộc ở buổi bình minh, là bước chuyển mình to lớn từ nhận thức khát vọng thành hành động việc làm. Cổ Loa là nơi đồng bằng đắc địa, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào phù hợp với việc trồng lúa nước, lại có giao thông thuận lợi. Dời đô về nơi ấy, nhà Vua đã gửi gắm vào mảnh đất ấy những hạt mầm sinh sôi, những ước vọng cho nhân dân một cuộc sống no đủ, xã tắc cường thịnh. Đó không chỉ là khát vọng của nhà Vua mà còn là khát vọng của toàn thể dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước, bảo toàn nền độc lập tự cường.
Nhưng để thực hiện khát vọng ấy không hề đơn giản. Mục đích càng lớn lao thì con đường đến đích càng lắm chông gai. Dời đô về Cổ Loa nghĩa là tự phơi mình giữa đồng bằng, thách thức kẻ thù. Thấy được mối đe dọa đó, An Dương Vương cho xây thành đắp lũy. Việc xây thành khó khăn, xây lại đổ. Hình ảnh cụ già bí ẩn và thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành chế nỏ là những yếu tố minh chứng cho sự đồng tình của thần linh đối với khát vọng độc lập tự cường của dân tộc. Hình ảnh nỏ thần chính là sự thần thánh hóa và bí mật của vũ khí là kết tinh của trí thông minh và nghệ thuật giữ nước của cha ông. Như cây gậy sắt của Thánh Gióng, nỏ thần với những mũi tên bách phát bách trúng khiến quân Triệu Đà thua, Âu Lạc chấm dứt cảnh binh đao, ca khúc thái bình. Đó là mong ước ngàn đời quốc gia được độc lập, yên bình đối với một dân tộc nhiều giặc dã.
Không dừng lại ở đó, dân gian kể tiếp bi kịch nước mất, nhà tan, tình yêu tan vỡ. Khát khao về một dân tộc độc lập khiến ta quý trọng nền độc lập bao nhiêu càng lên án trước những hành động dù vô tình làm mất nước của hai cha con An Dương Vương. Rùa Vàng là hiện thân cho thái độ của nhân dân. Lời thét lớn của Rùa Vàng “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó” chính là sự phê phán gay gắt dành cho Mị Châu xuất phát từ tình yêu nước, lòng thiết tha với nền độc lập dân tộc.
Khát vọng độc lập tự cường là khát vọng chưa bao giờ ngừng nung nấu trong trái tim những người dân đất Việt. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là câu chuyện về một quá trình dựng nước, giữ nước đầy vất vả khó khăn và bi kịch nước mất nhà tan, tình yêu tan vỡ ấy khiến ta biết trân trọng nền độc lập, biết căm ghét chiến tranh, lên án những kẻ vô tình hại nước. Câu chuyện là bài học đắt giá về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng đừng để xảy ra bi kịch như Mị Châu vì tình riêng mà quên đi trách nhiệm của một nàng công chúa. Yêu nước thôi là chưa đủ, để biến khát vọng tự cường độc lập thành hiện thực mãi mãi, mỗi người dân còn phải biết bảo vệ nền độc lập, hết mình xây dựng đất nước. Đó cũng là bức thông điệp mà dân gian ta gửi gắm cho người đọc. Thông điệp ấy được viết nên từ cảm hứng nhân văn cao đẹp - vì con người.
2.3. Ngợi ca tình nghĩa đạo lí con người
Dân tộc Việt Nam xưa kia sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ. Vì thế mà từ ngàn đời nay, con người Việt Nam luôn sống với nhau trọn nghĩa vẹn tình, luôn nhắc nhau phải giữ tròn đạo lí làm người. Nét đẹp nghĩa tình đạo lí ấy đã được dân gian gửi gắm vào trong các truyện cổ dân gian: từ đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây (trích sử thi Đăm Săn), truyện thơ Tiễn dặn người yêu đến truyện cổ tích Chử Đồng Tử...
Đăm Săn chiến thắng Mtao Mxây là bắt nguồn từ danh dự của một người anh hùng khi bị kẻ thù lăng nhục, nhưng sự quyết chiến ấy còn được tạo nên từ nghĩa tình chung thủy với vợ là Hơ Nhí, bằng nghĩa tình sâu nặng với buôn làng. Chàng đã làm tròn đạo lí của một người chồng, làm vẹn nghĩa với một người tù trưởng khi sự bình yên của buôn làng mình bị uy hiếp. Lời ngợi ca người anh hùng còn được cất lên khi chàng có nghĩa cử vô cùng cao đẹp với dân làng của Mtao Mxây, chàng đã kêu gọi tha thiết, chân thành họ hãy đi theo mình. Hành động ấy không chỉ thể hiện tấm lòng bao dung của Đăm Săn mà còn làm sáng lên đạo lí “thương người như thể thương thân”. Và rồi Đăm Săn được thưởng công không chỉ là buôn làng của mình ngày càng thịnh vượng, giàu có mà chàng còn trở thành một tù trưởng tiếng tăm lẫy lừng, được mọi người kính nể.
Đến với Truyện thơ Tiễn dặn người yêu, chuyện tình mặn nồng, sâu sắc của chàng trai và cô gái dù có để lại bao nỗi xa xót, sầu muộn nhưng nghĩa tình thủy chung của họ giống như một lời ca vút lên giữa cái thẳm xanh của đại ngàn. Nghĩa tình của chàng trai dành cho cô gái thật đẹp, thể hiện qua lời dặn ngậm ngùi của anh, qua lời bày tỏ niềm mong ước được “kề vóc mảnh, quấn quanh vai, bế bé xinh, nựng con rồng con phượng”. Rồi bằng nghĩa tình sâu đậm họ hẹn ước với nhau dù không lấy nhau mùa hạ họ lấy nhau mùa đông, không được bên nhau thời trẻ, họ sẽ bên nhau khi góa bụa về già. Nghĩa tình đậm sâu ấy của họ dù có bị thử thách qua cái chết cũng vẫn vẹn nguyên tươi thắm như buổi ban sơ. Tình yêu họ dành cho nhau mãi khắc tạc vào thời gian, năm tháng, vào đất, vào trời như núi non đại ngàn vẫn sừng sững, trơ trơ…
Đến thế giới cổ tích, thế giới của những giấc mơ những ta không chỉ được mơ mà còn được học ở chính nghĩa tình và đạo lí mà người xưa gửi gắm nơi phép màu thần tiên. Truyện Chử Đồng Tử xúc động lòng người ở vẻ đẹp đạo làm con, ở tấm lòng hiếu thảo trong tâm hồn chàng trai nghèo. Trao đi cái nghĩa tình cho cha ấy để rồi cuối cùng Chử Đồng Tử lại được nhận về đủ đầy những tình nghĩa mặn nồng - ấy là nghĩa tình của nàng công chúa Tiên Dung sinh ra từ trong nhung lụa, lớn lên trong bạc vàng châu báu nhưng lại quyết gửi gắm phần đời sau của mình cho chàng trai nghèo nơi bến sông. Dù cuộc sống lao động đầy khổ cực nhưng họ luôn ngập tràn tình yêu thương, nghĩa tình sâu nặng. Lòng tôn kính thần linh và những phẩm chất tốt đẹp của họ khiến họ được thần tiên ban phước lành, sống giàu sang, phú quý và giúp họ tránh xa tất cả thị phi chốn nhân gian mà giữ gìn mối lương duyên tốt đẹp nơi tiên cảnh. Nghĩa tình chân thành và cảm động của họ người đời sau mãi khắc ghi và lưu truyền đến ngàn năm.
2.4. Khát vọng công lí
Niềm mơ ước cái thiện thắng cái ác và mơ ước về hạnh phúc của nhân dân lao động Việt Nam xưa là niềm mơ ước không bao giờ vơi cạn, đó là biểu hiện tha thiết về khát vọng công lí trong cuộc đời trăm đắng ngàn cay này.
Truyện cổ tích Chử Đồng Tử, Cây Khế, Thạch Sanh, Sọ Dừa… là những câu chuyện thể hiện khát vọng công lí của nhân dân ta. Đặc biệt, truyện cổ tích Tấm Cám đã nói lên khát vọng ấy thật thấm thía và sâu sắc hơn bao giờ hết. Thân phận con côi, những giọt nước mắt tủi hờn sau những lần bị đầy đọa, ức hiếp là minh chứng cho sự đau khổ tưởng như không bao giờ chấm dứt của cuộc đời Tấm, nhưng với cái nhìn công bằng, nhân ái, nhân dân ta đã đứng về phía những con người bất hạnh, làm sáng lên khao khát được sống hạnh phúc, làm dịu đi những đắng cay chua chát của đời họ. Nhân dân đã để cho ông Bụt đến bên cô gái nghèo, xuất hiện mỗi lần Tấm khóc, an ủi nâng đỡ mỗi khi Tấm gặp khó khăn. Cùng với Bụt là con gà, con chim sẻ - những con vật thần kì đã trợ giúp cho Tấm trên con đường đi đến hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân ta mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa. Niềm mơ ước không chỉ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời mà còn thể hiện niềm tin ở hiền tất gặp lành của nhân dân lao động.
2.5. Cái nhìn khoan dung đối với con người
Sự khoan dung, độ lượng, cái nhìn thông cảm, nhân ái của nhân dân ta cũng là biểu hiện đẹp đẽ thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc trong truyện cổ dân gian. Trở lại với truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy mới thấy hết vẻ đẹp tinh thần cao quý đó của người xưa. Hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp của mình và đưa Âu Lạc đến diệt vong. Đó là bài học cay đắng về thái độ mất cảnh giác đối với kẻ thù. Lời kết tội đánh thép của nhân dân ta gửi trong câu nói của Rùa Vàng “kẻ ngồi sau ngựa chính là giặc đó”, hành động An Dương Vương “tuốt gươm chém Mị Châu” cho thấy thái độ nghiêm khắc, dứt khoát của nhân dân ta đã đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xứ án. Tuy nhiên, với tấm lòng khoan dung nhân ái, biết ơn người anh hùng An Dương Vương đã từng có công lớn trong sự nghiệp dựng nước, dân gian đã mĩ lệ hóa, bất tử hóa cái chết của An Dương Vương, đã sáng tạo nên hình tượng đẹp “ngọc trai – nước giếng” để bày tỏ sự xót thương, cảm thông với Mị Châu và Trọng Thủy.
Kết luận: Tinh thần nhân văn là một tư tưởng xuyên suốt không chỉ trong truyện cổ dân gian mà trong cả dòng mạch văn học dân tộc. Từ đó, ta thêm trân trọng di sản văn học quá khứ, cảm thông với tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân, có ý thức hơn về sự công bằng, sự khoan dung trong xã hội hiện nay.
3. Thực hành phân tích tinh thần nhân văn qua một số truyện dân gian
- Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy (Truyện Rùa vàng)
- Truyện Chử Đồng Tử (Nhất dạ trạch)
- Truyện cổ tích Tấm Cám
Bài tập về nhà
Tìm đọc thêm các truyện cổ dân gian, lập dàn ý và viết thành văn các đề sau:
Đề 1: Đến với khát vọng của người xưa qua truyện cổ dân gian Việt Nam
Đề 2: Vẻ đẹp nghĩa tình đạo lí của con người Việt Nam qua truyện cổ dân gian